Tìm kiếm tin tức

Chung nhan Tin Nhiem Mang

 

 

Bàn về chuỗi cung ứng dịch vụ du lịch Việt Nam
Ngày cập nhật 08/08/2018

Sự phát triển của ngành Du lịch đã và đang góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Vì vậy, cần phát triển chuỗi cung ứng dịch vụ du lịch để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người về du lịch và giúp Du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Chuỗi cung ứng dịch vụ du lịch Việt Nam

Liên kết trong chuỗi cung ứng

Thực trạng phát triển du lịch hiện nay ở Việt Nam cho thấy đã và đang tồn tại các mối liên kết giữa các bên tham gia trong chuỗi cung ứng du lịch để hình thành một sản phẩm du lịch tổng hợp cung cấp cho khách du lịch. Một số hình thức liên kết đã được phát huy, ví dụ như:

Liên kết theo tổ chức quản lý (cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, liên doanh với nước ngoài). Mối liên kết này được thể hiện thông qua các hoạt động quản lý, triển khai, giám sát thực hiện các qui định pháp luật, thỏa thuận trong hoạt động kinh doanh du lịch. Về phía quản lý Nhà nước, một loạt các cơ chế, chính sách, thể chế liên quan có tác động tích cực, tạo nền tảng thúc đẩy du lịch phát triển đã được hình thành và đổi mới phù hợp dần với điều kiện và xu hướng phát triển du lịch thế giới và trong nước. Những văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến du lịch như Pháp lệnh xuất, nhập cảnh, cư trú, đi lại cho người Việt Nam; cho người nước ngoài và các văn bản liên quan khác được bổ sung; thủ tục nhập, xuất cảnh, cư trú, đi lại, hải quan liên tục được cải tiến thuận tiện hơn cho khách cho khách và các nhà đầu tư.

Dấu ấn nổi bật của ngành Du lịch là đầu năm 2017, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08 về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Quốc hội khóa XIV thông qua Luật Du lịch (sửa đổi). Chính phủ cũng thông qua hai chính sách về thị thực đối với người nước ngoài là thí điểm cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam và tiếp tục gia hạn miễn thị thực cho khách du lịch từ 5 nước Tây Âu (Anh, Pháp, Đức, Italia và Tây Ban Nha), tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của du khách, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng cao lượng khách quốc tế đến Việt Nam.

Liên kết theo hành lang phát triển (giữa các địa phương trong một khu vực hoặc hành lang phát triển). Trong thời gian qua liên kết khu vực giữa các địa phương được hình thành một cách tự phát dưới hình thức tạo ra các chương trình du lịch đặc thù. Ví dụ như: Du lịch Quảng Nam, Đà Nẵng, Thừa Thiên - Huế đã từng bước hướng đến sự liên kết chuyên nghiệp. Nhiều chương trình quảng bá đã được 3 địa phương phối hợp xây dựng chiến lược cùng xúc tiến như “Đà Nẵng biển gọi”, “Quảng Nam - Hành trình di sản”; “Lăng Cô huyền thoại biển”; “Ba địa phương - một điểm đển”. Sự hợp tác liên kết giữa 3 địa phương chính là đã đưa thương hiệu Du lịch miền Trung đến với du khách trong và ngoài nước như là điểm đến lý tưởng của Việt Nam, từ đó góp phần thu hút du khách trong và ngoài nước, tạo thêm công ăn việc làm và ngân sách cho các địa phương...

Liên kết dọc (từ trung ương đến địa phương và cộng đồng dân cư tại điểm đến du lịch). Các doanh nghiệp du lịch và các cơ quan quản lý du lịch duy trì mối liên kết dọc từ trung ương đến địa phương để cung cấp dịch vụ phục vụ khách du lịch, cũng như chỉ đạo điều hành phát triển du lịch theo chiến lược và định hướng chung. Về quản lý Nhà nước, Tổng cục Du lịch thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan trung ương có chức năng tham mưu giúp Bộ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về du lịch trong phạm vi cả nước. Ở địa phương chức năng này thuộc các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch hay Sở Du lịch. Nhiều doanh nghiệp du lịch lớn cũng hình thành các văn phòng đại diện tại địa phương để triển khai các hoạt động liên kết tại địa phương trong điều hành kinh doanh du lịch...

 Liên kết theo ngành nghề kinh doanh (lữ hành, khách sạn, vận chuyển khách, bao gồm cả vận chuyển bằng đường không). Hình thức liên kết này chủ yếu được thực hiện qua việc các doanh nghiệp du lịch theo từng ngành nghề kinh doanh ký kết hợp đồng phục vụ khách du lịch trong một chương trình du lịch.

Trong chuỗi cung ứng du lịch, các doanh nghiệp lữ hành đóng vai trò là cầu nối giữa cung và cầu trong hoạt động du lịch. Tại Việt Nam trong thời gian qua, các doanh nghiệp lữ hành chính là các đơn vị đi đầu trong việc thu hút hàng triệu khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và thúc đẩy tăng trưởng du lịch nội địa, đáp ứng nhu cầu đi du lịch trong nước của hàng chục triệu lượt người dân trong cả nước. Các hãng lữ hành tổ chức các chương trình du lịch trọn gói (tour) để cung cấp cho khách du lịch. Các tour thường được coi là sản phẩm du lịch cụ thể, trong đó đã bao gồm các dịch vụ cơ bản đáp ứng nhu cầu đi du lịch của mọi người. Như vậy, khi xây dựng các tour, các hãng lữ hành đã phải liên kết chặt chẽ với các cơ sở lưu trú du lịch, các hãng vận chuyển du lịch (kể cả hàng không) và các doanh nghiệp dịch vụ khác trên cơ sở hợp đồng kinh doanh. Khi một tour được thực hiện thì trong đó đã có sự tham gia của của nhiều doanh nghiệp với các ngành nghề khác nhau. Trước đây trong mối liên kết này, các doanh nghiệp lữ hành thường nắm vai trò chính trong việc phân phối khách và phân chia lợi ích cho các doanh nghiệp khác tham gia vào chuỗi cung ứng du lịch. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, hiện nay xu hướng khách du lịch tự sắp xếp cho chuyến đi của mình không thông qua các hãng lữ hành hoặc mua chương trình tour ngày càng gia tăng. Với xu hướng này, vai trò của các doanh nghiệp lữ hành ngày càng hạn chế trong chuỗi giá trị du lịch.

Trong chuỗi cung ứng du lịch, vai trò của các doanh nghiệp kinh doanh khách sạn, lưu trú ngày càng tăng trong mối liên kết kinh doanh du lịch. Hầu hết các khách sạn đều đã thiết lập hệ thống tiếp thị trực tiếp tới khách du lịch, giảm sự phụ thuộc vào các doanh nghiệp lữ hành thông qua các kênh quảng bá, đặt chỗ trên mạng Internet. Các khách sạn đã chủ động tập trung vào việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, nâng cao chất lượng phục vụ để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách du lịch, chú trọng tới các đối tượng khách thường xuyên.

Trong mối liên kết giữa các ngành nghề kinh doanh, vận chuyển hàng không hiện đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc phục vụ khách du lịch tại Việt Nam. Trong tổng số khách quốc tế đến Việt nam với mục đích du lịch thì 70 -80% đi bằng đường hàng không. Do vậy, khách du lịch đóng vai trò then chốt đối với việc lập kế hoạch và đưa ra quyết định khai thác của Hãng hàng không Việt Nam. Thực tiễn cho thấy các thị trường nguồn của ngành Du lịch đồng thời cũng là thị trường trọng điểm của ngành Hàng không Việt Nam...

Theo tiến trình phát triển, trong những năm qua sự liên kết giữa các bên tham gia trong chuỗi cung ứng du lịch đã được hình thành trên cơ sở hướng tới đạt được các lợi ích chung và phát triển theo hướng hiệu quả, bền vững, tạo ra khả năng cạnh tranh cao hơn cho sản phẩm du lịch Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay Du lịch Việt Nam vẫn thiếu các mô hình liên kết tốt, hiệu quả, có sự định hướng của Nhà nước, tạo ra giá trị và sức cạnh tranh cao hơn của sản phẩm. Chính vì vậy, mặc dù sản phẩm du lịch hiện nay đang phát triển một cách ồ ạt nhưng phần lớn trùng lặp và nghèo nàn về nội dung.

Nội dung, cơ chế và chính sách liên kết giữa khu vực Nhà nước và tư nhân trong phát triển du lịch

Do tính liên ngành của hoạt động du lịch nên nhiều chính sách và quy hoạch phát triển của các ngành khác cũng ảnh hưởng đáng kể đến ngành Du lịch.

Ở các địa phương, sự phối hợp để đẩy mạnh phát triển sản phẩm du lịch, phát huy tiềm năng du lịch của mỗi địa phương, xây dựng các chương trình du lịch theo các tuyến liên vùng; phối hợp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ du lịch đã trở thành nhu cầu tự nhiên. Các sở quản lý du lịch đã hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc các đơn vị thực hiện các dự án xây dựng sản phẩm du lịch, liên doanh, lập dự án đầu tư nhằm tăng cường mối liên kết vùng, mở rộng phạm vi các chương trình du lịch liên vùng, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Sự liên kết  này tuy mới chỉ được bắt đầu ở một số vùng, nhưng là một giải pháp đúng đắn có tác dụng làm tăng gía trị của sản phẩm du lịch theo cách tiếp cận chuối giá trị du lịch.

Việc chuyển hóa nhận thức về tác động quan trọng của phát triển du lịch đối với phát triển kinh tế - xã hội thành hành động cụ thể được thể hiện rõ nét nhất trong chính sách đầu tư phát triển hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Trong thời gian qua, toàn ngành và các địa phương, đặc biệt là ở các địa bàn trọng điểm du lịch, đã phát huy nội lực, huy động vốn từ nhiều nguồn để phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Kết quả đầu tư này là tiền đề quan trọng để cải thiện chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm du lịch Việt Nam.

Vốn hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng từ ngân sách nhà nước đã khuyến khích các địa phương, các thành phần kinh tế đầu tư hàng nghìn tỷ đồng đầu tư cho cơ sở hạ tầng du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.

Năm 2017, ngành Du lịch Việt Nam đã thu về cho đất nước 510 tỉ đồng. Với sự đầu tư lớn vào hạ tầng, du lịch Việt Nam đã có bước chuyển về “chất” với hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới.

Mặc dù đã có sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý để phát triển du lịch, tuy nhiên hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập trong mối liên kết phát triển du lịch. Sự liên kết giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương vẫn chưa thật chặt chẽ trong xây dựng chính sách và trong điều hành. Sự phối kết hợp liên ngành, địa phương vẫn chưa đồng bộ, không thường xuyên cả trong nhận thức và hành động. Sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành trong từng địa phương để phát triển du lịch vẫn còn rất hạn chế. Chưa giải quyết được dứt điểm tình trạng ăn xin, đeo bám, chèo kéo, gây phiền hà cho khách ở nhiều điểm du lịch; tình trạng ô nhiễm môi trường du lịch, suy thoái tài nguyên môi trường, không đảm bảo vệ sinh an toàn, an ninh tại các điểm tham quan du lịch xảy ra tương đối phổ biến...

Phối hợp liên vùng đã bắt đầu được chú ý, nhưng còn lúng túng trong nội dung, chưa rõ ràng trong phân công, phân nhiệm và giải pháp để phát triển du lịch. Nhận thức chung của các đối tượng trên về vai trò hợp tác phát triển du lịch chưa đúng mức. Nhận thức xã hội về phát triển du lịch chưa đầy đủ. Những điểm hạn chế này đã làm giảm đáng kể giá trị của từng sản phẩm thành phần cung cấp cho khách du lịch nằm trong chuỗi cung ứng du lịch.

Hạn chế cơ bản của các doanh nghiệp tư nhân trong du lịch là thiếu sự liên kết chặt chẽ như một hệ thống để đạt được sự thống nhất cao trong kinh doanh, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh với các đối thủ trong khu vực. Một vấn đề khác cần quan tâm đặc biệt là chất lượng đội ngũ lao động thuộc các doanh nghiệp tư nhân. Theo báo cáo của các cơ quan quản lý, phần lớn lực lượng lao động thuộc các doanh nghiệp du lịch tư nhân chưa qua đào tạo bài bản. Ngoài ra,  sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân vào quy trình hoạch định chính sách và lập kế hoạch còn hạn chế, có rất ít mối quan hệ đối tác giữa các cơ sở công và cơ sở tư nhân.

Ngoài Hiệp hội Du lịch Việt Nam, trong lĩnh vực du lịch còn có các nhóm không chính thức khác nhau thuộc khu vực kinh tế tư nhân hoạt động theo cơ chế tự nguyện và xã hội hóa cũng đóng góp tích cực cho sự phát triển du lịch.

Một số kiến nghị và giải pháp

Kiến nghị đối với Nhà nước

Hoàn thiện chính sách, văn bản pháp luật hỗ trợ cho việc hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp kinh doanh du lịch

 Hiện nay, chưa có một văn bản, thông tư nào được Nhà nước ban hành hướng dẫn trực tiếp cho việc hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Hầu hết là việc các doanh nghiệp tự xây dựng mối liên kết dựa vào một số những văn bản Pháp luật có nội dung liên quan đến du lịch. Do vậy, không chỉ các doanh nghiệp gặp khó khăn mà ngay cả Nhà nước cũng gặp nhiều bất cập trong vấn đề quản lý.

Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch

Tiếp tục chương trình hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch giai đoạn 2011 - 2015 theo hướng tập trung ưu tiên tại một số địa phương có khu du lịch quốc gia, địa bàn trọng điểm du lịch miền trung - Tây Nguyên, các điểm du lịch có khả năng thu hút nhiều khách ở vùng phụ cận các trung tâm du lịch; hình thành các tour tuyến du lịch liên hoàn giữa các vùng du lịch trọng điểm, giữa các địa phương. Tập trung dứt điểm các công trình chuyển tiếp để phát huy hiệu quả dự án đầu tư và nghiên cứu ban hành cơ chế nhằm huy động các nguồn lực đầu tư CSHTDL

Tích cực tạo dựng hình ảnh và thương hiệu cho ngành Du lịch

Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xúc tiến, quảng bá tạo dựng hình ảnh và thương hiệu cho ngành Du lịch Việt Nam thông qua hoạt động kinh doanh du lịch như các sự kiện xúc tiến, các hoạt động văn hóa, hội chợ du lịch quốc tế tại thị trường trọng điểm và truyền thống cũng như các thị trường tiềm năng như: Ðức, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Trung Quốc và các thị trường khu vực Ðông - Nam Á... Nghiên cứu  cơ chế thành lập Văn phòng đại diện của du lịch Việt Nam tại một số thị trường trọng điểm (Hoa Kỳ, Tây Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…) để thực hiện có hiệu quả công tác giới thiệu hình ảnh điểm đến Việt Nam. Kế hoạch quảng bá xúc tiến du lịch Việt Nam của năm kế hoạch nên gửi đến các địa phương từ tháng 10 của năm thực hiện để các địa phương có cơ sở lên kế hoạch xúc tiến du lịch và có điều kiện phối hợp tham gia. Ngoài ra, cần nghiên cứu các thị trường trọng điểm và thị trường mới để xây dựng kế hoạch xúc tiến du lịch dài hạn; đồng thời xem xét, phân cấp và chuyển kinh phí cho các địa phương làm đầu mối cho các hoạt động xúc tiến du lịch của ngành cho từng thị trường nước ngoài mà địa phương đang có thế mạnh.

Tăng cường bảo vệ môi trường du lịch

Nhà nước tăng cường chỉ đạo các ngành, địa phương tăng cường phối hợp trong công tác chấn chỉnh môi trường du lịch, giải quyết triệt để tình trạng chèo kéo, chèn ép, lợi dụng, lừa đảo khách du lịch tại các trung tâm du lịch và công tác vệ sinh môi trường tại các khu, điểm du lịch, trạm dừng chân trong đó nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng hệ thống nhà vệ sinh công cộng đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch.

Giải pháp đối với doanh nghiệp          

Cộng đồng doanh nghiệp cũng cần cụ thể hóa thành mục tiêu, kế hoạch kinh doanh; xác định nhiệm vụ, trách nhiệm của mình, tăng cường liên kết để nâng tầm du lịch Việt Nam.

Hoàn thiện chiến lược và kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với điều kiện thực tế

Để các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh du lịch có thể chủ động và tích cực trong quá trình hợp tác và liên kết, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần có những chiến lược và kế hoạch kinh doanh cụ thể, phù hợp và quan trọng là trong chiến lược và kế hoạch kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cần hướng tới một mục tiêu là phát triển tốt chiến lược chung của ngành du lịch. Doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng kế hoạch kinh doanh hàng năm; xây dựng thương hiệu, nâng cao vị thế của doanh nghiệp; tăng cường liên kết để tạo ra sức mạnh trong cạnh tranh; tích cực hội nhập quốc tế; tăng cường tiếp cận và cập nhật thông tin, đặc biệt là thông tin về chính sách phát triển và các quy định pháp luật về du lịch.

Khai thác và sử dụng thông tin phù hợp. Đòi hỏi doanh nghiệp lữ hành, doanh nghiệp kinh doanh lưu trú và doanh nghiệp vận chuyển cần thiết lập một hệ thống thông tin liên kết với nhau ngoài hệ thống thông tin nội bộ của doanh nghiệp. Như vậy, những vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh du lịch chung sẽ được các doanh nghiệp nhanh chóng cập nhật, nắm bắt và trao đổi với nhau thông qua mạng thông tin này.

ThS. Đỗ Minh Phượng
Tạp chí Du lịch 6/2018
 

Theo: vtr.org.vn
Tin cùng nhóm
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Trung tâm TTXTDL Bình ĐịnhKhám phá HuếDu lịch Khánh HòaCổng du lịch Thừa Thiên HuếTrung tâm TTXTDL Thừa Thiên HuếDu lịch Hà NộiDu lịch thành phố Hồ Chí MinhDu lịch Quảng NamDu lịch Đà NẵngDu lịch Quảng BìnhDu lịch Ninh BìnhDu lịch Gia LaiSở VHTTDL Thanh Hóa
Thống kê truy cập
Lượt truy cập 12.964.213
Đang truy cập 571