Tìm kiếm tin tức

Chung nhan Tin Nhiem Mang

 

 

Kỷ niệm 75 năm Ngày Nhân quyền thế giới 10/12/1948 - 10/12/2023
Ngày cập nhật 28/11/2023

Nhân dịp kỷ niệm 75 năm Ngày Nhân quyền thế giới (10/12/1948 - 10/12/2023), Sở Du lịch Thừa Thiên Huế xin giới thiệu về nguồn gốc ra đời Ngày Nhân quyền, Ý nghĩa của Ngày Nhân quyền.

Ngày 10/12/1948, tại Thủ đô Paris của nước Cộng hòa Pháp, Đại hội đồng Liên Hợp quốc (LHQ) đã chính thức thông qua Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (Tuyên ngôn nhân quyền). 69 năm qua, Bản Tuyên ngôn có ý nghĩa nhân văn cao cả vẫn còn nguyên giá trị, đã và đang là mục tiêu phấn đấu của toàn thể nhân loại. LHQ đã lấy chính ngày thông qua Tuyên ngôn này làm Ngày Nhân quyền thế giới.
 
 
Bản Tuyên ngôn lịch sử mang tính quốc tế rộng lớn đã được Ủy ban Nhân quyền tiến hành dự thảo từ năm 1946, sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ II chưa đầy một năm. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của Tuyên ngôn với mục đích kêu gọi cộng đồng quốc tế cùng đoàn kết, có trách nhiệm bảo vệ hòa bình nhân loại. Trên cơ sở Tuyên ngôn này, LHQ tiếp tục thông qua hai Công ước quốc tế vào ngày 16/12/1966 nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của con người trên toàn thế giới cũng như thiết lập các cơ chế giám sát các quốc gia thành viên trong thực thi Công ước.
 
Trong mấy chục năm qua, nhân loại vẫn phải chứng kiến những cuộc chiến tranh phi nghĩa ở một số nơi, làm thương vong hàng triệu người. Sự ra đời của Tuyên ngôn mang tính chuẩn mực quốc tế và có sự ràng buộc mạnh mẽ nên đã góp phần quan trọng ngăn chặn, hạn chế các cuộc chiến tranh lan rộng. Thực tế, Tuyên ngôn này đã đặt nền tảng cho việc xây dựng hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về nhân quyền cũng như quyền tự quyết của mỗi dân tộc; đồng thời trở thành động lực thúc đẩy các nước phát triển trên các mặt kinh tế, pháp luật, văn hóa,… Việt Nam là một trong những nước đi đầu và bền bỉ trong thực hiện Tuyên ngôn – một giá trị vĩnh hằng mà các quốc gia đã cam kết và quyết tâm thực hiện vì cuộc sống đích thực của người dân.
 
Nhân quyền là phạm trù lịch sử gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người, giải phóng con người qua các hình thái kinh tế - xã hội và các giai đoạn đấu tranh giai cấp, qua đó quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại. Những tiến bộ trong việc thực hiện nhân quyền là thành quả đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống đế quốc, thực dân và của nhân dân lao động chống sự bóc lột của chế độ thống trị. Trong hơn nửa thế kỷ qua, nhất là những thập niên cuối thế kỷ XX đến nay, nhân quyền là vấn đề thu hút sự quan tâm của các quốc gia và các tổ chức quốc tế do sự phát triển nhận thức về quyền con người và sự lợi dụng nhân quyền để thực hiện mưu đồ riêng.
 
Lần đầu tiên các quyền con người được chính thức ghi trong các văn kiện quan trọng như: Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ, Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân của Pháp năm 1789, ... Tuy nhiên, giai cấp tư sản chỉ tập trung nhấn mạnh quyền dân sự, chính trị, nhưng coi nhẹ quyền kinh tế, văn hoá, xã hội là cơ sở và điều kiện quan trọng để người lao động thoát khỏi đói nghèo, không bị bóc lột. Cách mạng tháng Mười Nga đã tạo nên một phạm trù mới về quyền con người: đó là các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước XHCN đã đi đầu trong việc nêu bật các quyền dân tộc cơ bản như bộ phận thiết yếu của các quyền tập thể, đưa ra cách đề cập toàn diện và biện chứng hơn về nhân quyền. Theo đó, các quyền con người có thể được chia thành ba thế hệ, thể hiện sự phát triển của khái niệm quyền con người qua các giai đoạn lịch sử. Thế hệ một là các quyền cá nhân trong lĩnh vực dân sự, chính trị, các quyền bình đẳng và tự do cá nhân. Thế hệ hai là các quyền cá nhân trong lĩnh vực kinh tế - xã hội - văn hoá. Thế hệ ba là các quyền tập thể như quyền dân tộc cơ bản, tự quyết, bình đẳng giữa các dân tộc và quốc gia; quyền phát triển, quyền thông tin, quyền được sống trong hoà bình, trong môi trường lành mạnh,...
 
Qua quá trình phát triển, các văn bản pháp lý quốc tế về nhân quyền đã ra đời, đánh dấu về nhận thức và sự tiến bộ trong lĩnh vực nhân quyền. Hiến chương LHQ đã dành nhiều đoạn, mục khẳng định mục tiêu, quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của LHQ trong việc bảo vệ và thúc đẩy tôn trọng các quyền và quyền tự do cơ bản của con người. Hiến chương LHQ và Tuyên ngôn Nhân quyền là hai văn kiện quốc tế quan trọng đầu tiên về nhân quyền. Trong đó, Tuyên ngôn Nhân quyền do LHQ thông qua ngày 10/12/1948 được đánh giá là một trong những thành tựu lớn của LHQ và có ý nghĩa lịch sử vì đã đưa ra được những chuẩn mực chung cho tất cả các nước và dân tộc về các quyền con người và như đã nói ở trên được lấy làm Ngày Nhân quyền được LHQ kỷ niệm hàng năm. Từ đó, quyền con người được pháp điển hoá trong một số Công ước quốc tế về nhân quyền; trong đó, quan trọng nhất là hai Công ước ra đời năm 1966: Công ước về các quyền Dân sự và Chính trị, và Công ước về các quyền Kinh tế, Văn hoá và Xã hội. Lần đầu tiên “quyền tự quyết của các dân tộc kể cả quyền được tự do sử dụng của cải và nguồn tài nguyên thiên nhiên của mình” được đảm bảo trong 2 Công ước nêu trên mà trước đây không được nêu trong Tuyên ngôn Nhân quyền. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho cuộc đấu tranh vì quyền tự quyết của tất cả các dân tộc. Việt Nam đã ký kết và gia nhập các Công ước quốc tế về nhân quyền, trong đó có hai Công ước cơ bản nói trên vào ngày 24/9/1982.   
 
LHQ cũng đã hình thành bộ máy: hệ thống các cơ quan LHQ trên cơ sở các quy định của Hiến chương LHQ và hệ thống các cơ quan được thành lập trên cơ sở các Công ước quốc tế về nhân quyền; trong đó có Uỷ ban chuyên trách về các vấn đề nhân quyền, nhân đạo, xã hội, Uỷ ban nhân quyền (UBNQ), Cao uỷ LHQ về nhân quyền,... UBNQ chịu trách nhiệm đưa ra các khuyến nghị và báo cáo về các vấn đề nhân quyền thông qua Ủy ban kinh tế, văn hóa, xã hội - ECOSOC trình lên Đại Hội đồng (ĐHĐ) LHQ. UBNQ gồm 53  nước thành viên, nhiệm kỳ 3 năm, hàng năm họp một lần kéo dài 6 tuần (thường vào cuối tháng 3, đầu tháng 4) tại Giơ-ne-vơ. Năm 2005, tại Hội nghị Thượng đỉnh LHQ, Hội đồng Nhân quyền (HĐNQ) đã được thành lập để thay thế UBNQ thành lập năm 1946 với nỗ lực để đưa vấn đề nhân quyền trở thành một trong ba trụ cột chính của LHQ cùng với hoà bình an ninh và phát triển. Theo nghị quyết A/60/251 được ĐHĐLHQ thông qua ngày 16/3/2006, HĐNQ bao gồm 47 thành viên và trở thành một cơ quan trực thuộc ĐHĐ. Ngoài chức năng cơ bản kế thừa các chức năng của UBNQ trước đây, HĐNQ có nhiệm vụ rà soát, cải tiến và hợp lý hoá các cơ chế, nhiệm vụ và chức năng của UBNQ, đồng thời xây dựng Cơ chế Kiểm điểm định kỳ phổ quát về tình hình thực hiện nhân quyền của các nước trên thế giới.
 
Cùng với sự quan tâm ngày càng tăng đối với nhân quyền trên phạm vi toàn cầu, tại các diễn đàn đa phương đã diễn ra sự đấu tranh, phân hóa theo hai nhóm quan điểm trên lĩnh vực này xuất phát từ lợi ích và điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau: Quan điểm của các nước đang phát triển - Không liên kết (KLK) và quan điểm của Mỹ và phương Tây. Việt Nam vừa là nước đang phát triển, vừa là nước XHCN có quan điểm rất gần với các nước KLK tích cực. Cuộc đấu tranh xoay quanh 3 cụm vấn đề chính. Một là, tính phổ biến và tính đặc thù, thẩm quyền quốc gia và thẩm quyền quốc tế: Phương Tây tuyệt đối hóa tính toàn cầu, phổ cập của nhân quyền vượt lên trên thẩm quyền quốc gia, chủ trương can thiệp quốc tế đối với tình hình vi phạm nhân quyền ở các nước. Các nước đang phát triển thừa nhận tính chất chung của những giá trị cơ bản nhất trong khái niệm nhân quyền nhưng đồng thời cho rằng trong việc hiểu và thực hiện nhân quyền ở các nước không thể không dựa trên đặc thù lịch sử, văn hoá, kinh tế - xã hội của từng khu vực và từng nước; chống lại sự áp đặt mô hình và tiêu chuẩn về giá trị của bên ngoài, chống việc nhân danh bảo vệ nhân quyền để can thiệp nội bộ vi phạm chủ quyền quốc gia và quyền tự quyết dân tộc. Hai là, mối tương quan giữa các loại quyền con người: Phương Tây nhấn mạnh các quyền chính trị - dân sự và các quyền tự do cá nhân với dụng ý đề cao và áp đặt nền “dân chủ” và hệ thống giá trị chính trị - xã hội của phương Tây. Các nước đang phát triển đòi hỏi phải coi trọng ngang bằng cả hai loại quyền chính trị - dân sự và kinh tế - xã hội - văn hoá; đồng thời cho rằng các quyền tự do cá nhân không thể vượt lên trên mà phải gắn liền với quyền và lợi ích của số đông, của cộng đồng và dân tộc, quyền của thiếu số phải phục tùng quyền của đa số, quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội. Ba là, quyền phát triển và loại bỏ việc gắn điều kiện nhân quyền đối với hợp tác, viện trợ cho phát triển: Ở những mức độ khác nhau, các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ ngần ngại thừa nhận quyền phát triển của các dân tộc như một quyền con người cơ bản vì điều này dẫn đến trách nhiệm của họ với tư cách là những nước phát triển giàu có, phải đóng góp, hỗ trợ cho nỗ lực phát triển của các nước đang phát triển. Thậm chí, một số nước phương Tây vẫn chủ trương đặt tiến bộ về nhân quyền tại một nước thành điều kiện cho viện trợ phát triển hoặc những điều kiện thuận lợi cho thương mại,... Trong khi đó, các nước đang phát triển khẳng định quyền phát triển là quyền phổ biến, một trong những quyền cơ bản của con người, bác bỏ việc gắn điều kiện nhân quyền cho phát triển,...
 
Hiện nay, nhân quyền đã và đang trở thành một nhân tố không kém phần quan trọng trong các chương trình nghị sự và văn kiện của các hội nghị quốc tế, các tổ chức quốc tế và khu vực cũng như các hiệp định song phương, đa phương. Nhân quyền trong quan hệ quốc tế thể hiện xu thế chung là vừa hợp tác, vừa đấu tranh giữa các nước và các tổ chức quốc tế, với lợi ích đan xen giữa kinh tế và chính trị,... Tại các diễn đàn đa phương, vấn đề nhân quyền tiếp tục bị lợi dụng và bị chính trị hoá. Trong khuôn khổ LHQ, các nước phương Tây tìm mọi cách tăng cường tính chất cưỡng chế và ràng buộc của các cơ chế nhân quyền. Các nước khác, nhất là đại đa số các nước châu Á luôn đi đầu trong đấu tranh chống áp đặt và can thiệp của phương Tây.
 
 
 
Một trong những chủ thể đề cập nhiều đến vấn đề nhân quyền là các tổ chức phi chính phủ (NGOs) về nhân quyền có mặt ở hầu khắp các nơi trên thế giới. Trong đó, các Tổ chức Ân xá quốc tế, Tổ chức Theo dõi nhân quyền,... thường ra báo cáo về tình hình nhân quyền trên toàn thế giới, tố cáo vi phạm nhân quyền, kêu gọi tiến hành các biện pháp trừng phạt như cắt viện trợ, cấm vận đến đưa ra Tòa án Hính sự quốc tế, nhưng không ít báo cáo đã phản ánh sai lệch sự thật về các quốc gia mà các tổ chức này thiếu thiện chí. Trong những năm qua, một số nước mà chủ yếu là Mỹ và Nghị viện châu Âu đã sử dụng các báo cáo về tình hình nhân quyền của nhiều nước khác để dựa vào đó tìm cách áp đặt, ra điều kiện, thậm chí can thiệp,... nhất là các nước có chế độ chính trị khác hoặc tỏ ra “cứng đầu” nhưng lại lờ đi về tình hình nhân quyền của các nước thân hữu hoặc ở chính nước họ. Một số tổ chức và cá nhân có thái độ thiếu thiện chí với Việt Nam đã luôn câu kết với những phần tử xấu, cơ hội chính trị ở trong nước để xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam với những ý đồ chính trị nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của ta.
 
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn xác định quyền con người là giá trị chung của nhân loại; con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước; bảo đảm và thúc đẩy quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững. Theo đó, những tiêu chuẩn về quyền con người càng được củng cố và phát triển, đời sống của người dân ngày càng thay đổi và được nâng cao. Những thành tựu về xóa đói giảm nghèo của Việt Nam được cộng đồng quốc tế thừa nhận và được coi là một tấm gương mẫu mực cho các quốc gia khác noi theo. Những quyền cơ bản của người dân đang ngày càng được pháp luật bảo đảm, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ và những cam kết mà Việt Nam tham gia với tư cách là thành viên quốc tế và khu vực. Với việc thông qua Hiến pháp năm 2013, trong đó giành toàn bộ Chương II quy định việc bảo vệ quyền con người và quyền công dân; ban hành mới nhiều luật như: Luật Người khuyết tật, Luật Người cao tuổi, Luật Tố cáo, Luật Công đoàn, Luật Khiếu nại, Luật Luật sư, Luật Phòng, chống mua bán người,… đã giúp hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý về quyền con người ở Việt Nam, nhằm thực hiện tốt hơn quyền con người trên thực tế.
 
Với những thành tựu và uy tín của mình nên Việt Nam đã trúng cử làm thành viên HĐNQ với số phiếu cao nhất. Sau gần năm tháng kể từ khi Việt Nam bảo vệ thành công Báo cáo quốc gia theo cơ chế Rà soát Định kỳ Phổ quát (UPR) của HĐNQ LHQ khóa 26, ngày 20/6/2014, HĐNQ tại Geneva (Thuỵ Sĩ) đã chính thức thông qua Báo cáo UPR chu kỳ 2 của Việt Nam. Việc bảo vệ thành công Báo cáo UPR chu kỳ II chứng tỏ Việt Nam đã có những chủ trương đúng đắn, bước đi thuyết phục làm cho thế giới hiểu về quan điểm nhân quyền của mình với những thành tựu được cộng đồng quốc tế thừa nhận và rằng Việt Nam có quyền tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa,… theo Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị của LHQ. Đó cũng chính là câu trả lời rõ ràng cho những tổ chức, cá nhân vẫn ấp ủ âm mưu lợi dụng nhân quyền chống lại Việt Nam.
 
Ý nghĩa của Ngày Nhân quyền tại Việt Nam
 
Ở Việt Nam, các nguyên tắc và giá trị về quyền con người, về tự do, dân chủ đã được quy định và thể hiện ngay trong bản Hiến pháp năm 1946 - trước khi Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế được thông qua năm 1948. Tuy nhiên, trong các bản Hiến pháp sau này, từ Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 đã quy định và thể hiện rõ nét hơn các nguyên tắc và giá trị phổ quát về quyền con người được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Việt Nam được bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009) và thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016). Đó là sự ghi nhận và đánh giá cao của quốc tế đối với Việt Nam trong việc bảo đảm, thực thi quyền con người.
 
Ngày 02-9-1945 trên Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước cuộc mít tinh lớn của hàng chục vạn nhân dân thủ đô thuộc đủ các tầng lớp, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc Tuyên ngôn độc lập, công bố với toàn thể quốc dân và nhân dân thế giới rằng: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời. Trong phần cuối, bản Tuyên ngôn khẳng định quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của nhân dân Việt Nam, được hưởng nền độc lập do tự mình giành lấy từ tay Nhật: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập!”. Bản Tuyên ngôn đồng thời khẳng định ý chí sắt đá của nhân dân Việt Nam quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho ban bố một loạt chính sách để thực thi các quyền tự do, dân chủ đã nêu trong Tuyên ngôn. Việc tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa 1 và Hiến Pháp đầu tiên của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 là sự cụ thể hóa vấn đề nhân quyền, dân quyền đã từng được nhắc tới trong Tuyên ngôn độc lập.
 
Ở Việt Nam, các nguyên tắc và giá trị về quyền con người, về tự do, dân chủ đã được quy định và thể hiện ngay trong bản Hiến pháp năm 1946 - trước khi Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế được thông qua năm 1948. Tuy nhiên, trong các bản Hiến pháp sau này, từ Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 đã quy định và thể hiện rõ nét hơn các nguyên tắc và giá trị phổ quát về quyền con người được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Việt Nam được bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009) và thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016). Đó là sự ghi nhận và đánh giá cao của quốc tế đối với Việt Nam trong việc bảo đảm, thực thi quyền con người.
 
Ngày 02-9-1945 trên Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước cuộc mít tinh lớn của hàng chục vạn nhân dân thủ đô thuộc đủ các tầng lớp, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc Tuyên ngôn độc lập, công bố với toàn thể quốc dân và nhân dân thế giới rằng: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời. Trong phần cuối, bản Tuyên ngôn khẳng định quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của nhân dân Việt Nam, được hưởng nền độc lập do tự mình giành lấy từ tay Nhật: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập!”. Bản Tuyên ngôn đồng thời khẳng định ý chí sắt đá của nhân dân Việt Nam quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho ban bố một loạt chính sách để thực thi các quyền tự do, dân chủ đã nêu trong Tuyên ngôn. Việc tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa 1 và Hiến Pháp đầu tiên của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 là sự cụ thể hóa vấn đề nhân quyền, dân quyền đã từng được nhắc tới trong Tuyên ngôn độc lập.
 
Đó là những việc làm rất cụ thể của Người và Chính phủ ta nhằm thực hiện quyền con người. Đặc biệt, sự ra đời của bản Hiến pháp năm 1946, hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đánh đấu một bước tiến quan trọng về thực hiện dân chủ và quyền con người, quyền công dân trên một đất nước đã hơn 80 năm bị thực dân, phong kiến đô hộ, mọi quyền tự do dân chủ của con người và của dân tộc bị chà đạp. Quyền con người và quyền dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống dân tộc Việt Nam qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Sự gắn bó giữa cá nhân và cộng đồng dân tộc trong đấu tranh chống thiên nhiên khắc nghiệt và chống kẻ thù xâm lược.Người đã từng khẳng định, dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Mỗi khi đất nước bị xâm lăng thì tinh thần đó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, nó lướt qua mọi thử thách gian nan, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và cướp nước.
 
Tôn trọng và bảo vệ nhân quyền là một chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta từ trước tới nay. Từ ngày thành lập nước đến nay, chúng ta đã tham gia đầy đủ các hoạt động bảo vệ nhân quyền do Liên hợp quốc và các Tổ chức quốc tế như: Tham gia ký Công ước quốc tế về quyền trẻ em; chăm sóc bảo vệ người cao tuổi; tham gia tích cực các hoạt động chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, bảo vệ môi trường sinh thái, tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc...
 
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn xác định quyền con người là giá trị chung của nhân loại; con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước; bảo đảm và thúc đẩy quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững. Theo đó, những tiêu chuẩn về quyền con người càng được củng cố và phát triển, đời sống của người dân ngày càng thay đổi và được nâng cao.
 
Quyền con người là giá trị chung của các quốc gia, dân tộc. Giá trị đó đã sớm được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Đối với dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, quyền con người được xem là một mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Dân tộc Việt Nam có quyền tự hào về điều này, đồng thời chúng ta cũng có nghĩa vụ nặng nề trong việc giữ gìn niềm tự hào đó cho các thế hệ tương lai.

 

Sở Du lịch Thừa Thiên Huế
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Trung tâm TTXTDL Bình ĐịnhKhám phá HuếDu lịch Khánh HòaCổng du lịch Thừa Thiên HuếTrung tâm TTXTDL Thừa Thiên HuếDu lịch Hà NộiDu lịch thành phố Hồ Chí MinhDu lịch Quảng NamDu lịch Đà NẵngDu lịch Quảng BìnhDu lịch Ninh BìnhDu lịch Gia LaiSở VHTTDL Thanh Hóa
Thống kê truy cập
Lượt truy cập 13.103.252
Đang truy cập 9.916